Móng là kết cấu chịu lực của nhà nằm phía dưới mặt đất, gánh toàn bộ tải trọng của nhà và truyền đều xuống nền. Cấu tạo móng nhà được chôn dưới đất, do đó sau khi xây dựng hoàn tất công trình, nếu phát hiện cường độ và tính ổn định của móng không đủ thì khó sửa. Chính vì vậy, khi thiết kế móng phải đặc biệt thận trọng.
Các bộ phận cấu tạo của móng nhà bao gồm : tường móng, gối móng và đệm móng.
- Tường móng là bộ phận trung gian truyền tải trọng từ tường xuống gối móng, lại nằm trong đất kết hợp làm bệ nhà, cho nên cần làm bằng vật liệu có cường độ và độ bền cao. Thường chiều rộng tường móng làm rộng hơn tường mỗi phía 5 – 6cm với mục đích làm khoảng dự trữ sai số cho phép khi giác móng.
- Gối móng là bộ phận chịu lực chính của móng.
- Đệm móng có tác dụng làm sạch đế móng và tạo một mặt phẳng cho đế móng đảm bảo cho việc xây móng hay đổ bê tông được dễ dàng. Đệm móng thường làm bằng bê tông gạch vỡ dày 10 – 15cm, mác 50. Với loại đất tốt (như đá ong hay đá gan gà) có thể thay lớp đệm đó bằng một lớp cát đen san phẳng nện chặt hoặc có thể bỏ hẳn lớp đệm này nhưng với điều kiện đào móng xong là phải thi công ngay.
Móng băng là gì ?
Móng băng là loại móng chạy dọc suốt bên dưới các tường chịu lực. Đặc điểm loại cấu tạo móng nhà này là truyền tải trọng xuống nền tương đối đều đặn.
Mặt cắt của móng băng thường có hình chữ nhất, hình thang hoặc hình giật cấp (hình a), các loại móng trên thường dùng cho nhà dân dụng ít tầng có tải trọng không lớn và khi đất có cường độ lớn.
Nếu nhà ít tầng có tải trọng không lớn lắm và đất có cường độ trung bình thì thông dụng nhất là loại móng có mặt cắt hình thang và hình giật cấp (hình b và c).
Về phương diện thi công, móng kiểu hình b khó thi công hơn loại hình c, do đó thường chỉ gặp khi vật liệu xây dựng móng là bê tông.
Loại móng băng với cột chôn sâu (hình d) dùng khi lớp đất yếu quá dày và khi nhà cần cấu tạo tầng hầm.
Móng trụ (móng cột)
Nhà kết cấu khung chịu lực hoặc nhà có cột gạch chịu lực thì dưới mỗi cột có móng độc lập (móng đơn) còn gọi là móng trụ. Móng trụ thường được áp dụng trong nhà ít tầng khi tải trọng truyền lên đất nhỏ, áp suất dưới đế móng nhỏ hơn cường độ của đất. Trong các kết cấu tường chịu lực, móng trụ là những móng cấu tạo có hình thức như những trụ đỡ tường hoặc xây cuốn tường móng.
Việc sử dụng móng trụ có thể giảm sức lao động, bớt việc đào đất và tiết kiệm vật liệu so với dùng móng băng. Hình dáng thì tùy theo vật liệu và các nhân tố khác để chọn lựa. Có 2 dạng chính là móng trụ có đát vuông & móng trụ có đáy chữ nhật.
Nếu nền yếu, khi dùng móng cột do diện tích móng lớn, khiến cho khoảng cách giữa chúng tương đối gần nhau thì có thể liên kết móng trụ lại thành như móng băng. Việc này giúp thi công đơn giản và còn có lợi là móng được lún đều.
Liên kết một chiều thường không thể bảo đảm được độ cứng của nhà, do đó nên liên kết theo cả hai chiều, ta có được móng băng ô cờ còn gọi là móng liên tục.
Cấu tạo Móng bè trong xây dựng nhà dân dụng
Khi tải trọng của tường chịu lực hoặc của cột quá lớn, diện tích yêu cầu nhỏ nhất của móng băng hoặc móng cột gần đạt được 75% diện tích ngôi nhà thì có thể liên kết các móng cột với nhau thành một mảng gọi là móng bè.
Một số nhà nhiều tầng để hạn chế có hiệu quả chấn động tương đối lớn hoặc sự lún không đều, với yêu cầu móng có cường độ và độ cứng cao thì móng bè có thể có phạm vi ứng dụng rất lớn.
Móng có thể thiết kế theo kiểu có dầm sườn (hình b); với dầm sườn được bố trí theo khoảng cách nhất định cho cả hai chiều; hoặc không có dầm sườn (hình a).
Móng cọc
Móng cọc được áp dụng khi nền đất yếu phải chịu tải trọng lớn của công trình; mà việc gia cố và cải tạo nền đất khó khăn làm tăng giá thành công trình.
Móng cọc gồm có cọc và đài cọc.
Căn cứ vào đặc tính làm việc của cọc trong đất; người ta chia móng cọc ra làm 2 loại : móng cọc chồng & móng cọc ma sát.
- Móng cọc chồng được dùng trong trường hợp dưới lớp đất yếu là lớp đất rắn (đá); đầu dưới cọc đóng chặt vào lớp đất rắn và truyền tải trọng vào nó. Nền móng cọc chống không bị lún (hình a) hoặc lún không đáng kể.
- Móng cọc ma sát được dùng trong trường hợp lớp đất rắn ở quá sâu. Cọc ma sát truyền tải trọng công trình vào đất qua lực ma sát giữa đất ;và bề mặt của cọc.
Móng cọc trong nhiều trường hợp thường dùng tre gỗ vì dễ sản xuất và thi công. Trong thi công không để đầu cọc nhô lên; khỏi mực nước ngầm thấp nhất để tránh hiện tượng cọc bị mục.
Móng cọc bê tông đắt hơn tre và gỗ; dùng cho công trình chịu tải trọng lớn và độ bền vững cao ;(được sử dụng nhiều trong thi công xây dựng công nghiệp). Cọc bê tông không phụ thuộc vào mực nước ngầm; nên được dùng vào những nơi có mực nước ngầm thay đổi chênh lệch nhiều.
Dùng móng cọc cho phép giảm khối lượng đất đào móng khoảng 85%; bê tông 35 – 40%, từ đó giá thành của móng cọc có thể hạ được tới 35%.
Những loại móng băng, móng cọc, móng bè, móng đơn được đề cập bên trên; được phân loại dựa trên dựa trên hình thức của móng. Ngoài ra, dựa trên vật liệu và đặc tính còn có các loại móng khác nhau.
Phân loại móng theo vật liệu
Bao gồm móng gạch, móng bê tông đá hộc, móng bê tông (nặng hoặc nhẹ); móng thép, móng bê tông cốt thép,…
Móng đá thường được sử dụng ở những vùng sản xuất nhiều đá. Những vùng ít đá nếu dùng móng đá thì tốn kém rất nhiều sức lao động; và phí vận chuyển, nên không kinh tế. Nếu sử dụng móng thép thì sẽ rất đắt; và dễ bị xâm thực, do đó cũng ít được sử dụng.
Phân loại móng theo đặc tính
Dựa theo đặc tính thì móng được chia làm 2 loại là móng cứng và móng mềm.
Tùy theo móng cứng hay móng mềm mà gối móng được thiết kế chủ yếu chịu nén hay chịu uốn. Góc mở rộng của gối móng gọi là góc cứng. Đó là góc làm bởi đường nghiêng mở rộng gối móng với đường nằm ngang.
- Với móng cứng, gối móng thường làm bằng bê tông, gạch, đá hộc,… lực chịu nén rất lớn, nhưng chịu uốn kém.
- Với móng mềm thì sức chịu nén và chịu uốn đều tốt; thường gối móng làm bằng bê tông cốt thép.